Giáo dục đặc biệt là ngành học tổng thể trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo nên những khả năng đặc biệt cho những con người đặc biệt để họ có một cuộc sống bình thường hơn. Mặc dù có nhu cầu tuyển dụng cao nhưng ngành học này chưa thật sự có nhiều trường đào tạo.
Giáo dục đặc biệt là ngành học tổng thể trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo nên những khả năng đặc biệt cho những con người đặc biệt để họ có một cuộc sống bình thường hơn. Mặc dù có nhu cầu tuyển dụng cao nhưng ngành học này chưa thật sự có nhiều trường đào tạo.
Chuyên ngành Giáo dục Hán ngữ Quốc tế là một môn học chuyên ngành đại học trong hệ thống giáo dục bậc cao, thuộc chuyên ngành Văn học Trung Quốc.
Chuyên ngành Giáo dục Quốc tế Tiếng Trung chủ yếu đào tạo cho sinh viên có những kiến thức cơ bản và kỹ năng cơ bản về giáo dục quốc tế tiếng Trung, cùng với kiến thức song ngữ tiếng Trung và tiếng Anh (ngoại ngữ) và khả năng ứng dụng thực tế. Nhằm giảng dạy tiếng Trung quốc tế và quảng bá tiếng Trung quốc tế hoặc làm việc trong các cơ quan liên quan trong và ngoài nước và các doanh nghiệp văn hóa để thực hiện giao lưu văn hóa giữa Trung Quốc và nước ngoài, cũng như thực hiện các công việc văn thư liên quan.
Sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành Giáo dục Quốc tế Tiếng Trung có thể làm công tác giảng dạy và nghiên cứu tiếng Trung tại các cơ sở giáo dục ở nước ngoài, giảng dạy ngữ văn tại các trường tiểu học và trung học, các cơ sở giáo dục trong nước.
Họ cũng có thể làm công việc biên tập truyền thông mới tại các doanh nghiệp và cơ quan xuất bản, cũng như làm việc trong các lĩnh vực ngoại giao, đối ngoại, ngoại thương, giao lưu văn hóa Trung Quốc và nước ngoài, báo chí và các công việc khác yêu cầu năng lực tiếng Trung và ngoại ngữ.
Với chuyên ngành Giáo dục Hán ngữ Quốc tế, sinh viên của chuyên ngành này sẽ có nền tảng ngôn ngữ tiếng Trung vững chắc, trình độ văn học cao và nắm vững kiến thức cơ bản về ngôn ngữ, văn học Trung Quốc.
Đồng thời sinh viên được trang bị khả năng cảm nhận văn học mạnh mẽ, khả năng đọc hiểu các văn bản cổ điển, khả năng thẩm mỹ, đánh giá cùng với khả năng biểu đạt bằng ngôn ngữ qua văn bản và lời nói. Ngoài ra, sinh viên còn được trang bị thêm khả năng xử lý thông tin văn bản trên máy tính và kỹ năng giao tiếp, giao lưu giữa các cá nhân.
Chuyên ngành Giáo dục Hán ngữ quốc tế luôn được rất nhiều học sinh lựa chọn theo học và du học tại Trung Quốc. Để biết thêm thông tin về chuyên ngành này và các suất học bổng có liên quan, bạn vui lòng liên hệ theo hotline: 0345955066 - 0373.928.536 để được hỗ trợ nhanh nhất nhé.
Chúng ta cùng phân biệt hai khái niệm trong tiếng Anh là educational consultant (chuyên viên tư vấn giáo dục) và study abroad consultant (chuyên viên tư vấn du học) nha!
- An education consultant is often someone with teaching or administrative experience now serving as an advisor in all educational perspectives. (Một chuyên viên tư vấn giáo dục thường là người có kinh nghiệm giảng dạy hoặc hành chính hiện đang đóng vai trò cố vấn trong tất cả các khía cạnh về giáo dục.)
- A study abroad consultant is the one who helps in providing consultation to the students and parents in regards to abroad education. (Chuyên viên tư vấn du học là người hỗ trợ tư vấn cho học sinh và phụ huynh về vấn đề du học.)
Cạnh tranh SGK?.- “Cùng một lúc, Bộ GD-ĐT vừa đảm nhận vai trò biên soạn, vừa thẩm định SGK nên việc biên soạn SGK còn nhiều bất cập”, ĐB Mai Hoa (Nghệ An) nhận xét. Theo bà, bộ chỉ đóng vai trò ban hành chương trình khung và duyệt SGK. SGK lâu nay được coi là pháp lệnh, giáo viên giảng dạy, bám nội dung theo kiểu cứng nhắc, rập khuôn, máy móc, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy và học. Bà Huỳnh Thị Dã Thanh (Ninh Thuận) tỏ ra tâm đắc với quy định: Bộ trưởng GD-ĐT chỉ duyệt SGK do tổ chức, cá nhân biên soạn dựa trên cơ sở thẩm định của Hội đồng Giáo dục thẩm định. “Từng bậc học, cấp học, lớp học có thể có nhiều bộ SGK sẽ khai thác được tiềm năng trí tuệ của lực lượng trí thức trong xã hội. Do được đầu tư và tập trung trí tuệ, dứt khoát SGK sẽ khắc phục được những nhược điểm hiện nay”, bà Thanh tin tưởng. Bà Mai Hoa cho rằng cách làm này sẽ phá vỡ tính độc quyền, Bộ GD-ĐT không bị mang tiếng Bộ GD-ĐT “vừa đá bóng, vừa thổi còi”.
Thận trọng hơn, ĐB Lê Thị Tường Vân (Gia Lai) đề nghị thêm việc biên soạn, sử dụng giáo trình dạy nghề, CĐ, ĐH và sau ĐH cũng cần có quy định giáo trình chuẩn quốc gia.
Ngoại ngữ, tin học, học thế nào?.- ĐB Nguyễn Lân Dũng (Đắk Nông) đề nghị không nên quy định trong luật có một ngôn ngữ thứ hai nào đó. Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng cho rằng nên học ngoại ngữ từ lớp 3 trở lên. “Tôi thấy không được đâu, trừ một số trường hợp đặc biệt, còn nói chung như tỉnh Đắk Nông của tôi khó quá”, ông Dũng bày tỏ chính kiến. “Tôi ngầm hiểu các anh chị định đưa tiếng Anh vào coi như ngoại ngữ chính thống. Tôi có ý kiến ngược lại, không thể coi thường Trung văn vì tiếng Việt 60% bắt nguồn từ chữ Hán. Riêng các danh từ khoa học, chính trị, kinh tế - xã hội có đến 90% bắt nguồn từ chữ Hán”, ĐB Lân Dũng tranh luận - “Tôi không nhất trí với Ủy ban Văn hóa, Giáo dục về quy định ngoại ngữ thứ hai, bởi nó có rất nhiều vấn đề tế nhị”.
“Thương mại hóa giáo dục” đang bị hiểu nhầm.- “Luật hiện hành cấm mọi hành vi thương mại hóa giáo dục. Nhưng 6 năm qua, chúng ta đã chứng kiến một khoảng cách khá lớn giữa quan niệm và thực tế, mỗi khi có hiện tượng tiêu cực xảy ra, người ta lại nói giáo dục đã bị thương mại hóa” - ĐB Nguyễn Thị Thu Hồng (Thừa Thiên-Huế) lên tiếng bênh vực cho một xu thế mới. Bà Hồng đề nghị cần xem xét lại “giáo dục có phải một loại hàng hóa dịch vụ hay không?”. Nếu có, Nhà nước phải đưa ra sự cam kết thế nào? Hiện ở VN đã có những trung tâm giáo dục thu học phí rất cao, đã có Trường ĐH RMIT 100% vốn nước ngoài, mức học phí rất cao. Hơn nữa, Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực từ nhiều năm nay, Mỹ có quyền liên doanh đào tạo với VN và sau 7 năm có quyền đầu tư 100% vốn vào VN. Chính phủ cũng vừa có quy định cho phép mở các trường THPT 100% vốn nước ngoài.
“Theo tôi, nên hiểu giáo dục là loại hàng hóa đặc biệt theo hai nghĩa” - dù chỉ là ý kiến thiểu số nhưng những lập luận của bà Hồng tỏ ra xác đáng - “Loại hàng hóa có đặc trưng Nhà nước nhiều hơn về mặt thị trường, không tuân theo đầy đủ yêu cầu của cơ chế thị trường. Loại hàng hóa đặc biệt này, dưới góc độ kinh tế, giá bán trung bình phải thấp hơn giá thành trung bình, ở Mỹ tỉ lệ này là 1/3”. Vì vậy, theo bà, Nhà nước luôn có sự can thiệp, đặc biệt các chính sách từ ngân sách, cùng với sự kiểm soát tài chính ngặt nghèo, ngăn chặn xu hướng vụ lợi từ hoạt động giáo dục. Đồng tình, ĐB Néang Kim Cheng (An Giang) cho rằng “thương mại hóa” khác “thương mại”. Các trường dân lập, tư thục... đã hoạt động mang tính chất thương mại, tuy không vụ lợi nhưng có lợi nhuận. “Vì có lợi nhuận, họ mới bỏ tiền đầu tư, hoạt động đó mang tính thương mại. Đó là thực tiễn, không nên né tránh để khỏi bị ngộ nhận và phê phán như hiện nay”, bà Cheng kiến nghị.
4, 3 hay chỉ 2 loại hình trường ?
Tờ trình của Chính phủ có 3 loại ý kiến: Vẫn để các loại hình trường như hiện nay, gồm trường công lập, bán công, dân lập và tư thục; chỉ nên để trường công lập và tư thục; để 3 loại hình trường quốc lập, dân lập và tư thục. Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng Trần Thị Tâm Đan và ủy ban của bà, cơ quan thẩm tra dự luật, nghiêng về hướng chỉ còn 2 loại: trường công lập và tư thục. Lý do của sự lựa chọn này: Về mặt thực hiện nhiệm vụ GD-ĐT thì các loại hình trường đều có trách nhiệm và quyền hạn như nhau, chịu sự quản lý nhà nước thống nhất của Chính phủ. Có chăng, chỉ khác nhau về nguồn vốn đầu tư xây dựng trường và nguồn tài chính bảo đảm chi thường xuyên.
Trường công lập có nguồn vốn xây dựng và tài chính chi thường xuyên do Nhà nước bảo đảm. Về bản chất, trường bán công, dân lập, tư thục có phương thức quản lý tài chánh gần giống nhau, tự thu chi; giống nhau cả về trách nhiệm pháp lý. Do vậy chỉ nên tồn tại 2 loại trường: công lập và tư thục.